266 Lý Thường Kiệt,Phường 14, Quận 10,TP.HCM

    Bệnh Marburg (Marburg Virus Disease)

    25/03/2023, 7:00

    Virus Marburg là tác nhân gây bệnh do virus Marburg, tỷ lệ tử vong do MVD trung bình là khoảng 50%. Tỷ lệ tử vong đã thay đổi từ 24% đến 88% tùy thuộc vào chủng vi-rút và cách điều trị ca bệnh. 

    Virus Marburg và Ebola đều là thành viên của họ Filoviridae (filovirus). Mặc dù gây ra bởi các loại virus khác nhau nhưng hai bệnh này có biểu hiện lâm sàng giống nhau. Cả hai bệnh đều hiếm gặp và có khả năng bùng phát với tỷ lệ tử vong cao.

    Căn bệnh này khởi đầu từ hai đợt dịch lớn xảy ra đồng thời ở Marburg và Frankfurt (Đức) và ở Belgrade (Serbia) vào năm 1967. Đợt dịch này có liên quan đến phòng thí nghiệm sử dụng khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) nhập khẩu từ Uganda. Sau đó, các đợt dịch và các trường hợp lẻ tẻ đã được báo cáo ở Angola, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi (từ một người đã du lịch đến Zimbabwe) và Uganda. Năm 2008, hai trường hợp đã được báo cáo ở những du khách đã đến thăm một hang động có đàn dơi Rousettus sinh sống ở Uganda.

    Quá trình lây truyền

    Bệnh Marburg  khởi đầu là lây từ dơi mang mầm bệnh sống trong các hang động hoặc các hầm mỏ. Sau đó Marburg lây lan qua đường lây truyền từ người sang người qua tiếp xúc trực tiếp (qua da hoặc niêm mạc bị rách) với máu, dịch tiết của người bị nhiễm bệnh và với các bề mặt và vật liệu (ví dụ: giường, quần áo) bị nhiễm các chất dịch này.

    Nhân viên y tế có thể bị nhiễm bệnh trong khi điều trị bệnh nhân mắc bệnh Marburg. Điều này xảy ra thông qua tiếp xúc gần gũi với bệnh nhân mà không có các biện pháp kiểm soát nhiễm khuẩn nghiêm ngặt. Lây truyền qua dụng cụ tiêm bị nhiễm bẩn hoặc trực tiếp qua vết thương do kim đâm thường gây ra bệnh nặng hơn, suy tạng nhanh chóng và tỷ lệ tử vong cao hơn.

    Các triệu chứng của bệnh Marburg

    Thời gian ủ bệnh (khoảng thời gian từ khi nhiễm bệnh đến khi xuất hiện các triệu chứng) thay đổi từ 2 đến 21 ngày.

    Bệnh Marburg khởi phát đột ngột với sốt cao, nhức đầu dữ dội và khó chịu nghiêm trọng. Đau nhức cơ bắp là một triệu chứng phổ biến. Tiêu chảy nặng, đau bụng và chuột rút, buồn nôn và nôn có thể bắt đầu vào ngày thứ ba. Tiêu chảy có thể kéo dài trong một tuần. Ngoại hình của bệnh nhân ở giai đoạn này được mô tả là có vẽ mặt  "giống như ma", với đôi mắt sâu hoắm, khuôn mặt vô cảm và cực kỳ thờ ơ. Trong đợt bùng phát ở châu Âu năm 1967, phát ban dạng sẩn, phân bố ở vùng thân mình (bụng, ngực, lưng) là một đặc điểm được ghi nhận ở hầu hết bệnh nhân từ 2 đến 7 ngày sau khi xuất hiện các triệu chứng.

    Nhiều bệnh nhân xuất hiện các biểu hiện xuất huyết nghiêm trọng trong khoảng thời gian từ 5 đến 7 ngày, và các trường hợp tử vong thường có tình trạng xuất huyết và thường là từ nhiều vùng. Nôn và tiêu ra máu thường được thấy trên bệnh nhân có chảy máu mũi, nướu và âm đạo. Chảy máu không cầm tại các vị trí tiêm tĩnh mạch (truyền dịch hoặc lấy máu xét nghiệm) cũng được thấy trên những bệnh nhân nặng. Ở giai đoạn nặng, người bệnh sốt cao liên tục. Rối loạn hệ thống thần kinh trung ương có thể dẫn đến lú lẫn, bứt rứt và kích động. Viêm tinh hoàn (viêm một hoặc cả hai tinh hoàn) đôi khi được báo cáo trong giai đoạn muộn của bệnh (15 ngày).

    Các trường hợp tử vong, thường xảy ra nhất trong khoảng từ 8 đến 9 ngày sau khi khởi phát triệu chứng, và thường do mất máu nặng và sốc.

    Chẩn đoán

    Nếu chỉ dựa trên triệu chứng lâm sàng thì khó chẩn đoán phân biệt  bệnh Marburg với các bệnh truyền nhiễm khác như Sốt rét, Thương hàn, nhiễm khuẩn Shigellosis, Viêm màng não và các bệnh sốt xuất huyết do virus khác. Việc chẩn đoán xác định được thực hiện bằng các phương pháp chẩn đoán sau:

    • xét nghiệm ELISA

    • xét nghiệm kháng nguyên

    • xét nghiệm trung hòa huyết thanh

    • xét nghiệm RT-PCR

    • bằng kính hiển vi điện tử

    • phân lập virus bằng nuôi cấy tế bào.

    Các mẫu được thu thập từ bệnh nhân có nguy cơ cực kỳ nguy hiểm về mặt sinh học; thử nghiệm phải được tiến hành trong các phòng thí nghiệm có điều kiện phòng ngừa sinh học tối đa. Tất cả các mẫu vật sinh học phải được đóng gói bằng hệ thống đóng gói ba lớp khi vận chuyển trong nước và quốc tế.

    Điều trị và vaccine

    Hiện tại chưa có vaccine hoặc phương pháp điều trị kháng virus nào được chấp thuận. Tuy nhiên, chăm sóc hỗ trợ – bù nước bằng cách uống hoặc truyền tĩnh mạch  và điều trị các triệu chứng, giúp cải thiện tỷ lệ tử vong.

    Có các kháng thể đơn dòng (mAbs) đang được nghiên cứu và thuốc kháng virus, ví dụ: Remdesivir và Favipiravir đã được sử dụng trong các nghiên cứu lâm sàng về bệnh Ebola và Covid-19 cũng được thử nghiệm để điều trị bệnh Marburg.

    Vào tháng 5 năm 2020, EMA (Cơ quan Quản Lý Dược Châu Âu) đã cấp phép cho Zabdeno (Ad26.ZEBOV) và Mvabea (MVA-BN-Filo) để điều trị Ebola. Mvabea chứa một loại virus có tên là Vaccinia Ankara Bavarian Nordic (MVA) đã được sửa đổi để tạo ra 4 protein từ ebolavirus ở Zaire và ba loại virus khác cùng nhóm (filoviridae). Vaccine có khả năng bảo vệ chống lại bệnh Marburg, nhưng hiệu quả của nó chưa được chứng minh trong các thử nghiệm lâm sàng.

    Virus Marburg ở động vật

    Dơi Rousettus aegyptiacus được coi là vật chủ tự nhiên của virus Marburg. Không có bệnh rõ ràng ở dơi này, do đó sự phân bố địa lý của virus Marburg có thể trùng lặp với phạm vi của loài dơi Rousettus.

    Khỉ xanh châu Phi (Cercopithecus aethiops) nhập khẩu từ Uganda là nguồn lây bệnh cho người trong đợt dịch Marburg đầu tiên.

    Các thử nghiệm tiêm chủng trên heo với các loại virus Ebola khác nhau đã được báo cáo và cho thấy rằng heo dễ bị nhiễm virus filovirus và có thể thải virus ra ngoài. Do đó heo được coi là vật chủ trung gian tiềm năng trong các đợt dịch  bệnh Marburg. Các biện pháp phòng ngừa là cần thiết tại các trại nuôi heo ở Châu Phi để tránh heo bị nhiễm bệnh do tiếp xúc với dơi. Sự lây nhiễm như vậy có khả năng làm bùng phát virus và gây ra hoặc góp phần tạo nên dịch bệnh Marburg.

    Ngăn ngừa và kiểm soát

    Kiểm soát ổ dịch tốt dựa vào việc sử dụng một loạt các biện pháp can thiệp, cụ thể là quản lý ca bệnh, giám sát và truy tìm người tiếp xúc, xét nghiệm đầy đủ , chôn cất người chết an toàn, cũng như huy động lực lượng xã hội. Sự tham gia của cộng đồng là chìa khóa để kiểm soát thành công các đợt dịch. Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ lây nhiễm Marburg và các biện pháp bảo vệ là một cách hiệu quả để giảm sự lây truyền sang người:

    • Giảm nguy cơ lây truyền từ dơi sang người do hoạt động ở  với các hầm mỏ hoặc hang động có dơi sinh sống. Trong các hoạt động làm việc, nghiên cứu hoặc tham quan du lịch trong hầm mỏ hoặc hang động có dơi sinh sống, thì nên đeo găng tay và quần áo bảo hộ thích hợp khác (bao gồm cả khẩu trang). Trong thời gian dịch, tất cả các sản phẩm động vật (máu và thịt) phải được nấu chín kỹ trước khi tiêu thụ.

    • Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người trong cộng đồng do tiếp xúc trực tiếp hoặc gần với bệnh nhân bị nhiễm bệnh, đặc biệt là với chất dịch cơ thể của họ. Nên tránh tiếp xúc gần với bệnh nhân Marburg. Nên đeo găng tay và trang bị bảo hộ cá nhân thích hợp khi chăm sóc người bệnh tại nhà. Nên rửa tay thường xuyên sau khi thăm người thân bị ốm trong bệnh viện, cũng như sau khi chăm sóc người bệnh tại nhà.

    • Thông tin cho người dân trong vùng dịch đầy đủ về bản chất của dịch bệnh và các biện pháp ngăn chặn ổ dịch cần thiết.

    • Các biện pháp ngăn chặn bùng phát bao gồm chôn cất người chết nhanh chóng, an toàn. Xác định những người có thể đã tiếp xúc với người bị nhiễm Marburg và theo dõi sức khỏe của họ trong 21 ngày, cách ly người khỏe mạnh với người bệnh để ngăn ngừa lây lan thêm.

    • Giảm nguy cơ lây truyền qua đường tình dục. Dựa trên phân tích các nghiên cứu đang diễn ra, WHO khuyến nghị nam giới sau mắc bệnh Marburg thực hiện tình dục an toàn và vệ sinh trong 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với virus Marburg. Nên tránh tiếp xúc với chất dịch cơ thể và nên rửa với xà phòng và nước.

    Kiểm soát lây nhiễm trong môi trường y tế

    Nhân viên y tế phải luôn thực hiện các biện pháp phòng ngừa chuẩn khi chăm sóc với tất cả bệnh nhân. Các biện pháp này bao gồm vệ sinh tay cơ bản, vệ sinh hô hấp, sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân (để chặn các vết bắn hoặc tiếp xúc  với vật bị nhiễm), thực hành tiêm an toàn và thực hành chôn cất an toàn.

    Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã xác định nhiễm virus Marburg nên áp dụng các biện pháp kiểm soát lây nhiễm bổ sung để tránh tiếp xúc với máu và dịch cơ thể của bệnh nhân cũng như các bề mặt hoặc vật bị lây nhiễm như quần áo và ga trải giường. Khi tiếp xúc gần (trong vòng 1 mét) với bệnh nhân mắc bệnh Marburg, nhân viên y tế nên đeo thiết bị bảo vệ mặt (tấm che mặt hoặc khẩu trang y tế và kính bảo hộ), áo choàng dài tay sạch và găng tay.

    Nhân viên phòng thí nghiệm là nhóm có nguy cơ cao. Các mẫu lấy từ người và động vật để điều tra nhiễm Marburg phải được xử lý bởi nhân viên được đào tạo và xử lý trong phòng thí nghiệm có trang bị phù hợp.

    Sự tồn tại của virus ở những người khỏi bệnh Marburg

    Virus  Marburg được thấy là tồn tại ở trong cơ thể  một số người đã khỏi bệnh như: tinh hoàn và bên trong mắt. Ngoài ra:

    • Ở những phụ nữ bị nhiễm bệnh khi đang mang thai, virus hiện diện trong nhau thai, nước ối và thai nhi.

    • Ở những phụ nữ bị nhiễm bệnh khi đang cho con bú, virus có thể tồn tại trong sữa mẹ.

    Hiếm khí bệnh tái phát ở người đã khỏi bệnh Marburg (mà không do tái nhiễm), nhưng cũng đã được ghi nhận. Lý do cho hiện tượng này vẫn chưa được hiểu đầy đủ.

    Sự lây truyền virus Marburg qua tinh dịch bị nhiễm bệnh đã được ghi nhận kéo dài đến bảy tuần sau khi hồi phục lâm sàng. Cần có thêm dữ liệu giám sát và nghiên cứu về các rủi ro lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là về tỷ lệ virus sống và lây truyền trong tinh dịch theo thời gian. Trong thời điểm hiện nay và dựa trên bằng chứng hiện có, WHO khuyến nghị rằng:

    • Nam giới sau mắc bệnh Marburg nên được xét nghiệm tinh dịch khi xuất viện và trong ba tháng kể từ khi khởi phát bệnh. Xét nghiệm tinh dịch nên được thực hiện kéo dài cho đến khi có hai kết quả xét nghiệm âm tính liên tiếp.

    • Tất cả những bệnh nhân Marburg và bạn tình của họ nên được tư vấn để đảm bảo thực hành tình dục an toàn cho đến khi tinh dịch của họ hai lần xét nghiệm âm tính với virus Marburg.

    • Những bệnh nhân Marburg và bạn tình của họ nên:

    o kiêng tất cả các hoạt động tình dục, hoặc

    o tuân thủ các thực hành tình dục an toàn hơn như việc sử dụng bao cao su đúng cách cho đến khi tinh dịch của họ được xét nghiệm hai lần âm tính đối với virus Marburg.

    • Nam giới sau khi mắc bệnh Marburg nên thực hiện các biện pháp thực hành tình dục an toàn trong 12 tháng kể từ khi xuất hiện các triệu chứng hoặc cho đến khi tinh dịch của họ xét nghiệm hai lần âm tính virus Marburg.

    Thực hiện: BS CKII Bùi Trọng Hợp - Trưởng khoa Nhiễm, Bệnh viện Trưng Vương

    Nguồn tài liệu: Trang Web Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO)

    Chia sẻ